Tam thất chữa ung thư biểu mô đáy.

Ung thư biểu mô đáy – Basal cell carcinoma.

Định nghĩa: Ung thư biểu mô đáy (BCC) là khối u ác tính của da xuất phát từ lớp đáy của thượng bì và các phần phụ của da. Bệnh được phân làm một trong sáu thể (thể u, thể bề mặt, thể tăng sắc tố, thể tuyến, thể xơ cứng, thể dạng bớt). Thể thông thường nhất là thể u ( 21%); thể ít gặp nhất là thể xơ cứng (1%); thể hỗn hợp chiếm khoảng 40%.

Ung thư biểu mô đáy tiến triển rộng ra xung quanh và phá hủy tổ chức bình thường.

ung thư biểu mô đáy

ung thư biểu mô đáy

Dịch tễ học :

– Ung thư biểu mô đáy là bệnh về khối u của da thường gặp nhiều nhất
– 85% ung thư biểu mô ở vùng đầu và cổ
– Vị trí thương tổn chiếm nhiều nhất là mũi (30%)
– Tuổi mắc bệnh ung thư biểu mô thường trên 40 tuổi
– Tỉ lệ bệnh nhân ung thư biểu mô nam mắc bệnh nhiều hơn nữ.
– Các yếu tố thuận lợi: người da  vàng, tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời, phòng tắm da dùng nhiều tia tử ngoại, tiền sử có điều trị bệnh với tia bức xạ ( bệnh Hodgkin), cá nhân hoặc gia đình có tiền sử mắc bệnh ung thư da và người có hệ thống miễn  dịch suy yếu.

Lâm sàng:

– Thể u :  biểu hiện bằng u hình tròn, không đau, có thể một hoặc nhiều u và đôi khi thường có loét kèm theo; bề mặt u có dãn mạch, bờ nổi cao có hạt ngọc ung thư màu trắng; một số ung thư biểu mô đáy thể u có tăng sắc tố làm cho thương tổn lâm sàng giống với ung thư hắc tố.

– Thể bề mặt: thương tổn là đám màu đen giới hạn rõ rệt với da lành , trên bề mặt có vẩy hoặc lõm xuống, bờ nhỏ như sợi chỉ có hạt ngọc ung thư ở trên bờ. Thể này gặp nhiều ở thân mình và các chi.

– Thể xơ cứng: đám màu trắng hoặc vàng, bằng phẳng hoặc hơi nổi cao ( tương tự như xơ cứng bì khu trú); thương tổn trông như sẹo, bề mặt có màu giống sáp.

Chẩn đoán phân biệt:

– U mềm lây
– Tăng sản tuyến bã
– Vẩy nến
– Keratoacanthoma
– Ung thư hắc tố
– Khô da sắc tố
– Bớt tế bào đáy

Chẩn đoán: cắt sinh thiết làm giải phẫu bệnh để chấn đoán xác định.

Điều trị:

Trước tiên cần phải dựa vào kích cỡ khối u, vị trí thương tổn và thể lâm sàng.

– Phẫu thuật: Tốt hơn cho các khối u lớn, bờ xác định rõ và u khu trú ở cẳng chân, má, trán và thân mình.

– Phẫu thuật Mosh: Thích hợp với các thương tổn ở vùng có nhiều rủi ro ( mũi, mi mắt), khối u nguyên phát rất lớn, ung thư biểu mô đáy tái phát và với các khối u mà bờ khó xác định.

– Đốt điện và nạo bằng curret: Tốt cho ung thư biểu mô đáy thể u kích thước nhỏ < 6mm.

– Phẫu thuật lạnh với nitơ: Áp dụng với ung thư biểu mô đáy thể bề mặt và thể u mà bờ thương tổn xác định rõ, với ung thư biểu mô đáy có biến chứng và ung thư biểu mô đáy điều trị không có kết quả với các phương pháp khác.

– Phương pháp tia xạ thường áp dụng cho ung thư biểu mô đáy ở vùng da đòi hỏi phải bảo tồn tổ chức lành xung quanh về lí do thẩm mỹ (như quanh môi); áp dụng cho bệnh nhân mà không thể điều trị bằng các phương pháp khác hoặc thương tổn quá lớn và phẫu thuật thất bại.

– Kem Imiquimod (Aldara) 5% điều trị cho ung thư biểu mô đáy thể bề mặt kích thước nhỏ ở thân và các chi. Hiệu quả điều trị là 80%. Ưu điểm của phương pháp này là ít sẹo, phương pháp này đòi hỏi phải cân nhắc với các phương pháp phẫu thuật khác.

Tiến triển bệnh:

– Tỷ lệ >90% bệnh nhân được điều trị khỏi, tuy nhiên bệnh cần thiết phải được theo rõi 5 năm bởi vì rủi ro tái phát cao gặp nhiều ở ung thư biểu mô đáy là > 40% trong vòng 5 năm sau điều trị.

– Thương tổn ít gặp rủi ro nếu kích cỡ thương tổn < 1,5cm đường kính đối với thể u hoặc thể tuyến, thương tổn không phải nằm trong vùng điều trị khó ( vùng H ở mặt) và trước đấy chưa được điều trị gì.

– Thể u và thể bề mặt của ung thư biểu mô đáy ít xâm lấn nhất.

– Thể thương tổn xơ cứng bờ thương tổn có nguy cơ xâm lấn nhiều nhất >30% và tỷ lệ tái phát lớn nhất.

Bằng chứng:

– Điều trị ung thư biểu mô đáy tiên phát ở mặt bằng phẫu thuật cho thấy tỷ lệ thất bại thấp so với phương pháp điều trị bằng tia xạ trong thời gian theo dõi 4 năm, hơn nữa kết quả về thẩm mỹ cũng cao hơn so với tia xạ.

– Điều trị ung thư biểu mô đáy tiên phát thể bề mặt và thể u ở đầu và cổ, cả phẫu thuật và liệu pháp lạnh đều cho kết quả tái phát ngang nhau sau 12 tháng, nhưng kết quả về thẩm mỹ thì phẫu thuật tốt hơn liệu pháp lạnh.

– Phương pháp tia xạ với ung thư biểu mô đáy tiên phát ít tái phát hơn so với liệu pháp lạnh sau 1 năm. Kết quả về thẩm mỹ thì không khác nhau giữa 2 nhóm sau 1 năm.

– Một nghiên cứu ngẫu nhiên giai đoạn 3 so sánh imiquimod hoặc một loại kem bôi khác sử dụng 1 lần /ngày, 5-7 lần/tuần trong 6 tuần cho ung thư biểu mô đáy thể bề mặt. Kết hợp giữa lâm sàng và giải phẫu bệnh để định giá kết quả điều trị, cho thấy: Tỷ lệ khỏi của nhóm imiquimod là 75% và nhóm kia là 73%. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng imiquimod an toàn và hiệu quả đối với ung thư biểu mô đáy khi so sánh với một loại thuốc bôi khác.

Tam thất phòng và điều trị bệnh ung thư biểu mô đáy:

Tam thất bắc tên thuốc là Radix Notoginsing. Tên khoa học Panax pseudo-ginseng (Burk). Thuộc họ ngũ gia bì (Araliaceae).

Thành phần hóa học tam thất bắc có các axít amin và các nguyên tố Fe, Ca và đặc biệt là 2 chất saponin: arasaponin A, arasaponin B…

Dựa trên các nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng các nhà khoa học Nhật Bản và Hàn Quốc đi đển kết luận:

  • Tam thất có tác dụng phòng bệnh ung thư biểu mô đáy.
  • Tam thất có tác dụng kìm hãm, hạn chế, ức chế, tiêu diệt tế bào ung thư biểu mô đáy.
  • Tam thất có tác dụng hạn chể sự phát triển, di căn của khối u biểu mô đáy.
  • Tam thất phục hồi sức khỏe bệnh nhân ung thư biểu mô đáy trong quá trình điều trị bệnh ung thư biểu mô đáy bằng các phương pháp hóa trị, xạ trị, phẫu thuật

Bệnh nhân ung thư biểu mô đáy phải kết hợp điều trị tây y và sử dụng thêm tam thất bắc hàng ngày

Liều dùng: 12 gam tam thất sống 1 ngày, dùng vào buổi sang ngay sau khi ngủ dậy.

Trả lời

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *